TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH KHOA CHÚ 2014-2017
(Giảng lần thứ 4)
PHẨM 24: TAM BỐI VÃNG SANH:
Ba Bậc Vãng Sanh
Tập 329
Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng.
Giảng tại: Hiệp hội Giáo dục Phật Đà
HongKong.
Thời gian: Ngày 9 tháng 5 năm 2016.
Dịch giả: Minh Tâm và Chân Hạnh Ánh
Giảo chánh: Thích Thiện Trang.
Ban Biên Dịch Hoa Tạng
Huyền Môn.
Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, kính mời ngồi. Mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo: “A-xà-lê tồn niệm, ngã Đệ
tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật-Đà, lưỡng túc trung
tôn, quy y Đạt-Ma, ly dục trung tôn, quy y Tăng-Già, chư chúng trung tôn” (3
lần)
Mời xem Đại Kinh Khoa Chú, xem trang 781, từ dòng thứ tư: 住大乘者 “Trụ Đại thừa giả” (Người trụ Đại thừa), câu nói này vô cùng quan
trọng. 《法華經譬喻品》曰:若有眾生,從佛世尊聞法信受,勤修精進,求一切智、佛智、自然智、無師智、如來知見、力無所畏;愍念安樂無量眾生,利益天人,度脫一切,是名大乘。
“Pháp Hoa Kinh Thí Dụ Phẩm
viết: Nhược hữu chúng sanh, tùng Phật Thế Tôn văn pháp tín thọ, cần tu tinh
tấn, cầu Nhất Thiết trí, Phật trí, Tự Nhiên trí, Vô Sư trí, Như Lai tri kiến, Lực
Vô Sở Úy; Mẫn niệm an lạc vô lượng chúng sanh, lợi ích thiên nhân, độ thoát
nhất thiết, thị danh Đại thừa.”
(Phẩm Thí Dụ Kinh Pháp Hoa nói rằng: Nếu có chúng sanh, theo Phật Thế Tôn nghe
pháp tin nhận, chuyên cần tu tinh tấn, cầu Nhất Thiết trí, Phật trí, Tự Nhiên trí,
Vô Sư trí, tri kiến của Như Lai, Lực Vô Sở Úy; Xót thương nhớ đến an lạc vô
lượng chúng sanh, lợi ích trời người, độ thoát tất cả, đó gọi là Đại thừa). Tịnh Tông là Đại thừa, hễ là Đại thừa giáo, Trung
Hoa từ đời Hậu Hán, Phật giáo truyền đến Trung Hoa, năm xưa Kinh điển Đại Tiểu
thừa đều đến Trung Hoa, có thể nói đều đến cả. Sự việc này có ý nghĩa rất sâu,
nếu chúng ta có thể lãnh hội được. Thế Tôn năm xưa khi tại thế, lúc giảng Kinh
không có ghi chép, Phật cũng chưa từng viết một quyển sách nào, Kinh điển có
như thế nào? Mọi người đều biết điều này, sau khi Phật diệt độ, do Tôn giả A
Nan, ngài A Nan thiên tư cao, khả năng ghi nhớ tốt, nghe một lần ngay trong đời,
thì cả đời ngài sẽ không quên mất, có một nhân tài như vậy xuất hiện. Do đó kết
tập Kinh tạng, mọi người đã đề cử Tôn giả A Nan, giảng nhắc lại một lần lời Thế
Tôn đã nói, có năm trăm vị A-la-hán làm chứng. Bấy giờ năm trăm vị A-la-hán
tham dự nghe Kinh, có một vị A-la-hán cho là có vấn đề: A Nan, câu này hình như tôi chưa có nghe qua. Vậy là
phải cắt bỏ, không thể lưu truyền cho hậu thế. Lời do ngài A Nan nói, cần phải được
năm trăm vị A-la-hán mỗi vị gật đầu đồng ý, mới có thể viết ra, để lấy niềm tin
cho đời sau.
Lúc ngài A Nan kết
tập, ghi chép là dùng Phạn văn ghi chép, Phạn văn là văn tự phiên âm, ngày nay
chúng ta biết, thời gian truyền đời của văn tự phiên âm có hạn, không thể vượt
qua 300 năm. Ngôn ngữ ngày nay biến đổi rất nhanh, khoảng chừng 200 năm, ngôn
ngữ đã biến đổi rồi. Khi biến đổi, điều mà ngày nay viết ra, cũng chính là nói:
người sau 200 năm sau xem không hiểu. Cho nên truyền đến Trung Hoa, hoàn toàn
phiên dịch thành Văn ngôn văn chữ Hán của Trung Hoa. Trong Văn học, thể loại dùng
phiên dịch Kinh Phật gọi là biến văn, biến trong biến hóa, văn trong văn
chương, gọi là biến văn, nói cách khác, chính là Văn bạch thoại thời bấy giờ. Cũng
chính là nói, dùng văn tự dễ hiểu nhất để phiên dịch, đồng thời còn phải lo
ngại: quyển Kinh này truyền đến hậu thế sẽ không bị đổi ý nghĩa, người đời sau
vẫn có thể đọc hiểu được, vấn đề nan giải lúc bấy giờ. Chư vị Đại đức dịch Kinh
đã làm được, chúng ta phải cảm ân, bội phục! Xác thực: là dùng Văn ngôn văn chữ
Hán của Trung Hoa để viết, viết rất dễ hiểu, không bị truyền đạt nhầm, chú ý
đến tất cả mọi mặt.
Vào thời nay, chúng
ta đọc Kinh, xem thấy văn tự phiên dịch Kinh điển, do đó đối với xã hội trước
mắt chúng ta, cách nhìn của chúng ta: về Văn ngôn văn chữ Hán Trung Hoa đã khắc
sâu thêm một tầng. Chúng ta không thể không bội phục, Tổ tông đã để lại của
báu, chỉ duy nhất Trung Hoa có, toàn thế giới không có một đất nước thứ hai. Hiện
tại Đại Tạng Kinh mà phiên dịch bằng Trung văn, chính là Đại Tạng Kinh hoàn
chỉnh, điển tịch quan trọng toàn bộ đều đến đây hết. Đây là chư Phật Bồ-tát,
Thanh-văn Duyên-giác, các ngài mới có thể làm được, trí huệ chân thật, từ bi
chân thật, truyền lại những giáo huấn của Thế Tôn, hơn nữa vĩnh viễn sẽ không
thay đổi, có thể vượt qua mấy ngàn năm, sau này vẫn còn mấy ngàn năm. Pháp vận
của Phật ở thế gian này, là 12 ngàn năm, duy có thể văn cổ của chữ Hán Trung
Hoa: có khả năng làm được, để cho người sau 12 ngàn năm: đều có thể đọc hiểu.
Do đó chúng ta: phải xem
trọng thể văn cổ chữ Hán, ân đức lớn nhất của lão Tổ tông, cổ Thánh tiên Hiền: đối
với con cháu đời sau, chính là phát minh này, phát minh ra văn tự Trung Hoa. Chúng
ta nhận thức được càng sâu, lòng cảm ân càng nặng, sẽ khởi tác dụng, yêu văn tự
này, yêu truyền thống này, yêu dân tộc đất nước này. Chúng ta phải tận một phần
trách nhiệm, tiếp nhận về mình, phát dương quang đại, truyền phát tiếp xuống, vậy
thì con cháu của Trung Hoa, mới thực sự không có lỗi với Tổ tông, không có lỗi
với nhân loại. Người đó thì gọi là trụ Đại thừa giả, Đại thừa là Bồ-tát.
Trong Kinh
Pháp Hoa nói rất hay, thế nào gọi là Đại thừa? Mấy câu nói đơn giản trong Kinh
thì đã nói rõ ràng rồi, 若有眾生,從佛世尊聞法信受
“nhược hữu chúng sanh, tùng Phật Thế Tôn
văn Pháp tín thọ” (Nếu có chúng sanh, theo
Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận). Trong đây nêu ra hai điều
kiện, tất cả Pháp mà Phật thuyết cho chúng ta, ngày nay lưu truyền tiếp, tất cả
những Kinh điển dịch sang Trung văn này, bất luận Đại thừa hay Tiểu thừa, chư vị
nghe được rồi, chư vị đọc được rồi, việc đầu tiên phải tin, không có nghi ngờ; Việc
thứ hai phải thọ, thọ là chư vị tiếp nhận, phải kế thừa lưu truyền, những gì của
Tổ tông đến tay chúng ta, chúng ta phải tiếp nhận, chúng ta phải vận dụng, phải
vận dụng giáo huấn vào trong cuộc sống mới có thọ dụng.
Có
người hỏi tôi, tại sao phải học Phật? Tại sao phải học Văn hóa truyền thống
Trung Hoa? Câu trả lời rất đơn giản, ở trong phần quan trọng nhất của Kinh điển,
đã hiển thị ra rồi. Tại sao phải học văn hóa truyền thống? Câu đầu tiên trong
Luận Ngữ đã giải đáp rồi, do Khổng Tử nói, 學而時習之,不亦說乎 “học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ” (Học mà thường rèn tập, chẳng
phải vui lắm sao), chư vị muốn hay không? Bất diệc
duyệt hồ, chính là vui vẻ, đây là sự việc rất vui vẻ, chư vị muốn hay không? Muốn
vô cùng vui vẻ sống cả đời: trong thế gian này hay không? Là pháp hỷ sung mãn
đã nói trong Phật pháp. Tại sao vui vẻ? Bởi có thể mang đến cho chư vị một đời
hạnh phúc vui vẻ. Chúng ta muốn hay không? Muốn.
Như
thầy Phương, 65 năm trước tôi học Triết học với thầy, thầy đã giới thiệu Phật
pháp cho tôi, cũng có hàm ý câu nói như vậy. Thầy giới thiệu cho tôi, thầy nói:
đức Phật Thích Ca Mâu Ni là nhà Triết học vĩ đại nhất trên thế giới. Tôi học
Triết học với thầy, tôi không phải học Phật học với thầy, lúc bấy giờ chúng tôi
cho rằng Phật học là Tôn giáo, nên bài xích. Vì vậy thầy nói với tôi, đức Phật
Thích Ca Mâu Ni: là nhà Triết học vĩ đại nhất trên thế giới, đã làm rõ thân phận
rồi, không phải mê tín; Triết học Kinh Phật: là đỉnh cao nhất của Triết học
toàn thế giới, đã nói với tôi giáo huấn của đức Phật Thích Ca Mâu Ni rồi; Câu
thứ ba, học Phật là sự hưởng thụ cao nhất của đời người. Chư vị nghĩ xem, câu
nói này và: 學而時習之,不亦說乎 “học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ”
(Học mà thường rèn tập, chẳng phải vui lắm sao) của Phu tử, có phải một
ý nghĩa hay không? Vậy nếu tôi muốn sự hưởng thụ cao nhất của đời người, tôi
đương nhiên muốn, thế thì phải học, là sự việc như vậy. Phải dùng lời trên Kinh
Phật, đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói rõ ràng rồi, đức Phật Thích Ca Mâu Ni không
đặt ở câu đầu tiên, mà đặt ở câu sau cùng, câu phần sau cùng, câu cuối cùng là
gì? Tất cả Kinh sau cùng dùng câu gì để kết thúc? 皆大歡喜,作禮而去 “Giai đại hoan hỷ, tác lễ
nhi khứ” (Đều đại hoan hỉ, làm lễ và lui).
Chư vị xem, đều đại hoan hỷ, và 學而時習之,不亦說乎
“học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ”
(Học mà thường rèn tập, chẳng phải vui lắm sao)
của Phu tử, quan điểm hoàn toàn giống nhau; Với sự hưởng thụ cao nhất của đời
người: do thầy Phương nói, vậy muốn hay không? Muốn.
Không
chỉ như vậy, chư vị càng nghĩ thì càng cần, tại sao vậy? Bởi mỗi người đạt được
hạnh phúc cả đời, đạt được sự hưởng thụ cao nhất; Gia đình, chư vị ở gia đình,
vận dụng vào gia đình, thì cả đời này một người chư vị vô cùng vui vẻ, một ngày
sáng đến tối tươi cười đón tiếp người, một nhà chư vị hạnh phúc vui vẻ, gia hòa
vạn sự hưng. Chư vị xem, mang lợi ích cho gia đình chư vị, tự mình đạt được lợi
ích, gia đình đạt được lợi ích, hài hòa vui vẻ. Mang đến cho xã hội, chúng ta
theo từng tầng lớp mà nói, là mang đến thuận lợi trong công việc, bất luận chư
vị làm ngành nghề nào, đều thuận buồm xuôi gió, tại sao vậy? Do vui vẻ mang đến,
chư vị không có lo âu, chư vị không phiền não. Phiền não, lo âu mang lại nhiều
vấn đề cho chư vị, chư vị không có, thì vui vẻ hạnh phúc cả đời. Vì thế sự nghiệp
của chư vị nhất định thuận lợi, xã hội an định hài hòa, đất nước giàu mạnh, thiên
hạ thái bình, chính vì điều này. Vì điều này, chúng ta mới học văn hóa truyền
thống Trung Hoa, mới học Phật pháp Đại thừa, Phật pháp Đại thừa: đảm bảo có thể
giúp chúng ta đạt được viên mãn, khiến cho chúng ta cảm thấy hài lòng.
Do
đó, văn hóa truyền thống Trung Hoa và Phật pháp Đại thừa, đây là lời do ông
Toynbee nêu ra, vào thập niên 1970, trước khi vãng sanh hai, ba năm, toàn bộ
tinh thần ông ấy đều đang tuyên dương: học thuyết Khổng Mạnh, Phật pháp Đại thừa.
Ông ấy nói rất hay, giải
quyết vấn đề xã hội của thế kỷ 21, chính là vấn đề chúng ta gặp phải ngày nay,
chỉ có học thuyết Khổng Mạnh và Phật Pháp Đại thừa. Vì thế trong trường học ở
nước Anh hai năm nay, từ Tiểu học, Trung học, Đại học đều phải học Trung văn, xếp
Trung văn là ngoại ngữ thứ nhất, tất cả mọi người đều phải học. Mấy ngày trước
tôi đọc thấy một tin tức, báo cáo là, không chỉ là xếp Trung văn làm môn học chủ
yếu: để dạy trong trường học, lại nhìn thấy một phần, Phật giáo, cũng đưa Phật
giáo vào môn học chính thức. Chúng ta nghĩ, vậy khả năng đều là: chịu sự ảnh hưởng
của ông Toynbee, đây là một nhà Triết học Lịch sử một thời, đặc biệt là nghiên
cứu Văn hóa sử. Ông ấy nói với chúng ta, căn cứ theo nghiên cứu của ông, trên địa
cầu từ khi có lịch sử đến nay, đã từng phát sinh hơn 20 loại văn hóa, cũng
chính là văn minh, hơn 20 loại, thế nhưng văn minh mà không có Tôn giáo làm nền
tảng, cho nên không đến hai, ba trăm năm, thì không còn nữa, đã dần mất hẳn rồi.
Biến mất đến ngày nay, mọi người biết được, văn minh cổ có bốn nước, ba nền văn
minh kia cũng không còn nữa, hiện tại chỉ sót lại Trung Hoa. Đây là lời do ông
Toynbee nói.
Văn
minh từ đâu mà đến vậy? Do từ Tôn giáo đến, lịch sử nhân loại trước có Tôn
giáo, từ Tôn giáo dẫn xuất ra văn minh, văn minh mà không có Tôn giáo làm nền tảng,
đều không thể lâu dài. Văn hóa của Trung Hoa có thể đến ngày nay, văn minh duy
nhất còn tồn tại, nguyên nhân gì? Chúng ta sáng tỏ rồi, bởi có gốc, có Tôn
giáo, Tôn giáo này là Nho Phật Đạo. Người Trung Hoa nói là tam giáo cửu lưu, cửu
lưu là học phái. Tôn giáo là ý nghĩa gì, nhất định phải nói rõ ràng, không phải
mê tín, Tôn giáo mê tín cũng sẽ không truyền thừa lâu dài, đều chắc chắn phải
có Triết học làm nền tảng. Ý nghĩa Trung văn của hai chữ Tôn giáo này, thứ nhất,
Tôn giáo là giáo dục chủ yếu của nhân loại, chúng ta nhìn xem Nho Thích Đạo: có
phải là giáo dục chủ yếu hay không? Phải; Giáo học quan trọng; Giáo hóa tôn
sùng. Làm rõ ràng định nghĩa Tôn giáo, trong Tôn giáo không có mê tín. Hàm
nghĩa trong văn tự của Trung Hoa rất sâu, rất rộng, tôn là chủ yếu, trọng yếu,
tôn sùng; Giáo là giáo dục, giáo học, giáo hóa. Hai chữ này gắn liền nhau, thành
giáo dục chủ yếu, giáo học trọng yếu, giáo hóa tôn sùng, vậy làm sao có sai lầm?
Câu nói này của ông Toynbee nói rất nghiêm túc, nền văn minh mà không có Tôn
giáo: làm nền tảng, làm căn bản, thời gian không dài, hai, ba trăm thì không
còn nữa. Ông ấy đã cả đời làm văn hóa truyền thống, có được những kết luận đó,
chúng ta phải xem trọng.
Lúc
chúng tôi còn trẻ, học ở trong trường, cũng chịu sự ảnh hưởng của thầy cô, Tôn
giáo chính là mê tín, nhắc đến Tôn giáo, lập tức liên hệ đến mê tín ngay, nên không
bằng lòng tìm hiểu. Tôi đến 26 tuổi, chưa tiếp xúc Tôn giáo, không tin tưởng
Tôn giáo. Học Triết học với thầy Phương, thầy Phương lấy Triết học Kinh Phật:
làm thành một bài mục để dạy tôi, sau khi tôi học rồi mới làm sáng tỏ, làm rõ
ràng. Thầy lại giới thiệu tôi đọc Kinh, bảo tôi đọc Kinh Hoa Nghiêm, xem Sớ Sao
của Đại sư Thanh Lương, Hợp Luận của Trưởng giả Lý Thông Huyền. Sớ Sao là Giáo,
Hợp Luận của ngài Lý Thông Huyền là Thiền, Tông môn Giáo hạ, đã khái quát toàn
bộ tinh thần Phật giáo Đại thừa rồi.
Phân
lượng của Hoa Nghiêm rất lớn, ở Trung Hoa ba lần phiên dịch, thời Đông Tấn
phiên dịch 60 quyển, chúng ta thông thường gọi là Lục Thập Hoa Nghiêm; Nhà Đường
phiên dịch 80 quyển; Những năm Trinh Nguyên, quốc vương nước Ô Trà triều cống
cho Trung Hoa, chính là tặng lễ cho Hoàng đế, bên trong có một bộ Tứ Thập Hoa
Nghiêm, chính là phẩm sau cùng của Kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ-tát Hạnh Nguyện
phẩm. Phẩm này là hoàn chỉnh, vô cùng khó có, 53 lần tham vấn chính là trong phẩm
này, vô cùng hoàn chỉnh, đây là người Trung Hoa có phước báo. Tứ Thập gộp lại với
Bát Thập, loại bỏ một phần trùng lặp, trùng lặp có 20 quyển, tổng cộng 99 quyển,
đây là bản hoàn chỉnh nhất của Hoa Nghiêm ngày nay. Nguyên bản Phạn văn đã
không còn nữa, thất truyền rồi, cho dù có, chúng ta cũng chỉ có thể xem như
sách vở để kỷ niệm, bởi không ai có thể đọc hiểu; Muốn xem, hoàn toàn phải xem
Chú giải bằng Trung văn.
Từ
chỗ này, để cho chúng ta lãnh hội được một việc lớn khác, đó chính là trên địa
cầu này, bất luận Trung Hoa hay ngoại quốc, cổ Thánh tiên Hiền không có giới hạn,
văn hóa không có giới hạn, những điều tốt đẹp cần phải lưu truyền cho đời sau,
đều nên dùng chữ Hán, Văn ngôn văn Trung Hoa để phiên dịch, mới có thể bảo
toàn, việc này quan trọng. Không khó học tập chữ Hán, Văn ngôn văn, năm xưa tôi
ở Đài Trung, thầy Lý dạy cho chúng tôi, cổ văn, dùng Cổ Văn Quán Chỉ dạy chúng
tôi, đọc thạo 50 bài, tốt nhất có thể thuộc lòng, thì chư vị có năng lực đọc
Văn ngôn văn; Có thể đọc thạo 100 bài, thì chư vị có thể viết Văn ngôn văn, thầy
khích lệ chúng tôi. Trong lớp đó của chúng tôi còn có mấy học trò trẻ tuổi, đại
khái có mười người, tuổi tác nhỏ hơn tôi rất nhiều, lúc tôi đến với thầy Lý là
31, 32 tuổi, cũng có đồng học hai mươi mấy tuổi, thầy khuyên bảo họ.
Do
đó, Văn ngôn không khó, nên đọc thuộc lòng, trước 15 tuổi đều để chúng thuộc
qua. Thực tế thời xưa ở Trung Hoa, mục đích học thuộc lòng của người đi học
không phải là đọc thuộc, nên biết điều này, đọc thuộc là việc phụ, mục đích là
gì? Mục đích là dạy họ tu định, niệm mất đi Vọng tưởng, niệm mất đi ý niệm, tạp
niệm, niệm mất đi Phân biệt Chấp trước. Mục đích là gì? Mục đích là niệm ra tâm
thanh tịnh, vậy là khai ngộ. Vì thế đọc sách ngàn lần, tự thấy nghĩa của sách,
khai ngộ rồi. Sau khi khai ngộ rồi, thì chư vị đều biết ý nghĩa trong văn tự,
chư vị liền có thể nói ra. Cho nên thầy thời xưa không giảng sách, nếu vì học
trò mà giảng sách thì người ta không cần, không mời người thầy như vậy. Thầy có
năng lực gì? Thầy dẫn dụ từng người học trò đến khai ngộ, Tiểu ngộ, Đại ngộ, Đại
đại ngộ, đó là người thầy giỏi. Dùng phương pháp gì? Dùng giới định huệ.
Vì
thế phương pháp này của Phật giáo, sau khi truyền đến Trung Hoa, Nho giáo đã tiếp
nhận, Đạo giáo cũng tiếp nhận rồi, đều dùng phương pháp này, chính là thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài; Đọc sách ngàn lần, tự thấy nghĩa của sách. Mỗi ngày đọc
cùng một thứ, đọc nhiều lần, giống Kinh Vô Lượng Thọ, một ngày đọc mười lần, được.
Mười lần, nếu mới đầu đọc, một lần khoảng hai tiếng, mười lần phải 20 tiếng.
Thì tính đọc 10 tiếng, đọc năm lần. Đọc được nửa năm, đọc thạo rồi, gần như có
thể thuộc lòng rồi, đọc một lần nửa tiếng, một tiếng đọc hai lần. Về sau thì có
thể duy trì lâu dài, mỗi ngày sáng sớm đọc 20 lần, 10 tiếng, xem như thời khóa
sáng.
Đọc
sách ngàn lần, tự thấy nghĩa của sách, có thật hay không? Là thật. Cư sĩ Hồ Tiểu
Lâm: lần trước đến chỗ tôi để nói với tôi, đọc sách ngàn lần, tự thấy nghĩa của
sách: là thật sự, không phải giả. Sáu năm nay ông ấy đọc Đại thừa Khởi Tín Luận,
phân lượng của Đại thừa Khởi Tín Luận xấp xỉ Kinh Vô Lượng Thọ này của chúng
ta, không nhiều lắm, ông ấy đã đọc ba ngàn lần, sáu năm nay hơn ba ngàn lần.
Ông ấy nói sau khi đọc xong một ngàn lần, ông ấy đều hiểu ý nghĩa; Sau khi đọc
tiếp hai ngàn lần, thâm nhập rồi, ông ấy có thể lãnh hội được trình độ sâu rồi,
giảng được càng sâu, giảng được càng rộng. Hiện tại đến nơi này của chúng tôi,
tôi mời ông ấy giảng một lần, chúng tôi ghi âm lại bài giảng, là lần thứ ba
ngàn. Nói với tôi, lời của cổ Thánh tiên Hiền: là lời chân thật, không phải lời
giả. Ông ấy không có thầy, tìm ai ấn chứng? Thầy là người ấn chứng, không tìm
được thầy ấn chứng, tìm cổ nhân, ông ấy tìm Đại sư Ngẫu Ích. Đại sư Ngẫu ích có
một bộ Chú giải, Đại thừa Khởi Tín Luận Liệt Võng Sớ, do Đại sư Ngẫu Ích viết,
ông liền dùng bộ đó làm ấn chứng, chỗ ngộ của ông ấy và điều Đại sư Ngẫu Ích giảng:
có phải giống nhau hay không? Giống nhau.
Do
đó thầy là làm ấn chứng cho chúng ta, không phải giảng cho chúng ta nghe, giảng
cho chúng ta nghe: là chúng ta từ chỗ thầy mà có được, là điều của thầy. Tự
mình ngộ ra là điều của chính mình, là Đại thừa Khởi Tín Luận trong Tự Tánh,
không phải do người khác giảng, vị thầy đó ấn chứng cho chúng ta, giảng không
sai. Cho nên, Kinh luận không có ý nghĩa, nhất định phải biết, vì thế đừng cầu
giải, lúc khởi tác dụng vô lượng nghĩa, mỗi chữ mỗi câu đều là vô lượng nghĩa,
đó gọi là thực sự đã khai ngộ. Một ngộ tất cả ngộ, một Kinh thông rồi thì từng bộ
Kinh đều thông; Hiểu rõ một bộ Luận rồi, thì đều hiểu rõ trăm Luận, ngàn Luận,
vạn Luận. Đây là lý niệm, phương pháp, mục tiêu giáo dục: từ xưa đến nay của
người Trung Hoa, không giống với người ngày nay. Người ngoại quốc không có thầy
thì không thể được, tất cả là do học với thầy, hy vọng chư vị ở chỗ của thầy, từ
từ chư vị có kiến thức càng sâu, vượt qua cả thầy, có, rất nhiều. Đó là gì? Học
Khoa học, học Khoa học thì dùng phương pháp đó được. Phương Đông là học Tâm
Tánh, dùng phương pháp này không được, phương Đông nhất định phải khai ngộ. Một
ngàn lần Tiểu ngộ, hai ngàn lần Đại ngộ, ba ngàn lần nói không chừng Đại triệt
Đại ngộ.
Chúng
ta phải hiểu đạo lý này, chúng ta phải sáng tỏ sự thật, cổ Thánh tiên Hiền đều
là người như vậy. Nếu sau khi chư vị thật làm rõ ràng, thật sáng tỏ, thì sau đó
chúng ta xem Khổng tử, Khổng tử chính là: đã nói trong phần Hệ Từ của Kinh Dịch,
và lời Phật đã nói trong Kinh Đại thừa, có phải cùng một cảnh giới hay không?
Cùng. Xem thêm Đạo gia, Trang tử có thể nói ra: 天地與我同根,萬物與我一體 “Thiên địa dữ ngã đồng
căn, vạn vật dữ ngã nhất thể” (đất trời cùng gốc với
ta, vạn vật nhất thể với ta), đây là Phật pháp Đại thừa,
trọn cả vũ trụ là một thể. Nho cũng giảng, Phật cũng giảng, Đạo cũng giảng, các
Ngài chưa gặp nhau, đức Phật Thích Ca Mâu Ni chưa từng đến Trung Hoa, Khổng lão
phu tử cũng chưa từng đi du lịch qua Ấn Độ, lại có thể nói ra lời giống nhau,
lý niệm giống nhau, kiến giải giống nhau, đây là gì? Ngộ, Đại triệt Đại ngộ.
Người Đại triệt Đại ngộ, ở Ấn Độ gọi Ngài là đức Phật, ở Trung Hoa gọi là Thánh
nhân. Nếu đức Thích Ca sanh tại Trung Hoa, người Trung Hoa gọi Ngài là Thánh
nhân, Khổng tử sanh tại Ấn Độ, người Ấn Độ gọi Ngài là đức Phật, danh xưng
không giống nhau, nhưng các Ngài cùng một cảnh giới. Chư vị lại tỉ mỉ quan sát
Tôn giáo khác, Muhammad của Islam
giáo, không biết chữ, chưa từng đi học, lại có thể giảng được một bộ Kinh Cô
Ran, Kinh Cô Ran là do ngài ấy giảng, người khác ghi chép cho ngài ấy. Vì thế tất
cả các Ngài là Đại triệt Đại ngộ.
Ai
cũng đều có cơ hội Đại triệt Đại ngộ, tại sao vậy? Bởi đó là bản năng của Tự
Tánh. Chính là như câu thứ ba, Đại sư Huệ Năng đã nói khi khai ngộ, 何期自性,本自具足 “Hà
kỳ Tự Tánh, bổn tự cụ túc” (Nào ngờ Tự Tánh, vốn tự
đầy đủ), trí huệ là Tự Tánh vốn tự đầy đủ, đức năng là vốn
tự đầy đủ, thần thông cũng là vốn tự đầy đủ, không có một thứ gì không phải vốn
tự đầy đủ. Vì thế khai phát Tự Tánh, bên ngoài không có vật gì, 心外無法,法外無心 “tâm ngoại vô pháp, pháp ngoại vô tâm”
(ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm), pháp Đại thừa hoàn
toàn là khai phát Tự Tánh. Trong pháp của Tiểu thừa, Phật có giáo huấn, có dạy
bảo, hầu như đều là pháp thế gian, đến pháp xuất thế gian, Phật nhất định dạy
chư vị ngộ, dạy chư vị khai ngộ. Đây là lời chân thật dạy chúng ta, không phải
lời hư vọng. Dùng phương pháp Trung Hoa học [kiến thức] phương Tây không vấn đề,
dùng phương pháp phương Tây học Trung Hoa thì không học được, phương Tây không
rời khỏi A-lại-da. Đại thừa nhất định là: chuyển A-lại-da thành Đại Viên Cảnh
Trí, chuyển tám thức thành bốn trí, không giống nhau.
Do
đó, bốn chữ “Trụ Đại thừa giả” này quan trọng, người “Trụ Đại thừa giả” là căn
tánh Bồ-tát, họ có tâm đó, tâm đó không phải là tự tư tự lợi, tâm đó là lợi ích
chúng sanh. Giống như Trương tử đã nói, 為天地立心,為生民立命,為往聖繼絕學,為萬世開太平 “Vị
thiên địa lập tâm, vị sanh dân lập mệnh, vị vãng Thánh kế tuyệt học, vị vạn thế
khai thái bình” (vì đất trời lập tâm, vì sanh
dân lập mệnh, vì Thánh xưa mà kế tuyệt học, vì vạn đời mà khai thái bình),
đây chính là trụ Đại thừa giả. Ngài không phải Phật, mà nói ra bốn câu nói này,
tuy không phải Phật, cũng là Pháp thân Bồ-tát, trong Phật giáo gọi là Pháp thân
Bồ-tát. Tại sao vậy? Bởi cảnh giới của Pháp thân Bồ-tát, không sai không khác:
với câu trụ Đại thừa giả trong Kinh Phật này.
Người
học Phật thì đọc Kinh, nghe Kinh có thể tin, có thể tiếp nhận, có thể vận dụng
điều đã nghe vào cuộc sống của chính mình. Bắt đầu từ chỗ nào? Từ Tam quy Ngũ giới,
Thập Thiện nghiệp đạo, học rồi thì cần phải làm. Trong Kinh giáo Đại thừa mở
tâm lượng ra, học chư Phật Bồ-tát, vì tất cả chúng sanh nghiêm túc siêng tu
tinh tấn, siêng tu giới định huệ, khai phát trí huệ, công đức trong Tự Tánh. Tự
Tánh vốn có vô lượng trí huệ, vô lượng công đức, dùng trí huệ công đức này:
giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn, tiếp nhận sự dạy dỗ của Phật, sự nghiệp giáo
hóa chúng sanh của Phật, chúng ta phát dương quang đại, khiến cho tất cả chúng
sanh đều được lợi ích của Phật pháp, giống như Phật phổ độ chúng sanh, vậy thì
đúng rồi. Cho nên, phải cầu Nhất Thiết trí, Phật trí, Phật là trí huệ viên mãn,
Tự Nhiên trí, không phải do người khác dạy cho chư vị, Vô Sư trí, không có thầy
dạy chư vị, mà do khai ngộ. Đây chính là Tiểu ngộ, Đại ngộ, Triệt ngộ, đây đều
thuộc về: Nhất Thiết trí, Phật trí, Tự Nhiên trí, Vô Sư trí.
Đại
sư Huệ Năng khai ngộ rồi, đi đến Hoàng Mai cầu ấn chứng, ở Hoàng Mai đã rèn luyện
tám tháng. Ngũ tổ giảng Kinh Kim Cang cho ngài, giảng đến 應無所住,而生其心 “ưng
vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (nên không trụ vào đâu,
mà sanh tâm ấy), ngài đã sáng tỏ rồi, khai ngộ
rồi. Dạng khai ngộ nào? Đó chính là minh Tâm kiến Tánh, dạng minh Tâm kiến Tánh
nào? Ngài nói năm câu hai mươi chữ. 何期自性,本自清淨
“Hà kỳ Tự Tánh, bổn tự thanh tịnh”
(Nào ngờ Tự Tánh, vốn tự thanh tịnh), không ngờ rằng
Tự Tánh, đó gọi là sáng tỏ rồi, thấy được Tánh rồi, Tánh là ra làm sao? Vốn tự
thanh tịnh, không có ô nhiễm. Chúng sanh sáu đường người nào không ô nhiễm?
Chúng sanh sáu đường ngày nay: ô nhiễm đến tột cùng, đến cực hạn rồi. Đó là Vọng
Tâm, ô nhiễm của A-lại-da, ô nhiễm của Mạt-na, Tự Tánh không ô nhiễm, chúng ta
phải tin điều này, Tự Tánh là Chân Tâm, Chân Tâm không ô nhiễm. Vì thế chúng ta
sống ở thế gian này, phải học điều gì? Dùng Chân Tâm, đừng dùng Vọng Tâm, chính
là dùng tâm thanh tịnh, đừng dùng tâm ô nhiễm. Phải ở trong cảnh giới mà luyện,
luyện công, học tập, không bị cảnh giới bên ngoài ô nhiễm, không bị cảnh giới
bên ngoài ảnh hưởng. Cảnh giới là giả, không phải thật sự, cảnh giới tốt bằng
không, cảnh giới không tốt cũng bằng không, đừng cho là thật, đừng để trong
tâm, đây chính là không bị cảnh giới quấy nhiễu. Vô cùng rõ ràng, vô cùng sáng
tỏ, đó là trí huệ Bát-nhã của Tự Tánh, vô cùng rõ ràng, mà không để trong tâm,
thì thanh tịnh.
Câu
thứ hai nói với chúng ta, 本不生滅 “bổn bất sanh diệt”
(vốn không sanh diệt), không sanh không diệt.
Đây là sự thật, Tự Tánh là thật. Hiện tượng vật chất có sanh có diệt, người có
sanh lão bệnh tử, động vật cũng như vậy, thực vật có sanh trụ dị diệt, khoáng vật
có thành trụ hoại không. Nói rõ tất cả pháp trọn cả vũ trụ, hiện tượng vật chất
đều là có sanh có diệt. Vật chất có sanh diệt, Tướng phần của A-lại-da, Cảnh giới
tướng của A-lại-da, không phải là thật.
Câu
thứ ba nói 本自具足 “bổn tự cụ túc”
(vốn tự đầy đủ). Đầy đủ điều gì? Đầy đủ trọn cả
vũ trụ, đầy đủ tất cả Pháp giới. Cho nên, trọn cả vũ trụ, tất cả cõi nước chư
Phật, vô lượng vô biên tất cả pháp, là do Tự Tánh biến hiện, do Tự Tánh sở hiện.
Tự Tánh không có thứ gì, mà có thể hiện tất cả pháp, tất cả pháp sở hiện đều là
pháp sanh diệt, không phải thật. Bản thể của Tự Tánh không phải môi trường vật
chất, cũng không phải môi trường tinh thần, nó không có ý niệm, đó là dạng gì?
Một khối ánh sáng. Vì thế, Tịnh Độ Tông gọi là Thường Tịch Quang Tịnh Độ, trên
Kinh Hoa Nghiêm gọi là Thường Tịch Quang: chính là Đại Quang Minh Tạng. Thể là
một khối ánh sáng, ở chỗ nào? Không lúc nào chẳng có, không đâu chẳng có. Nếu
chư vị rời khỏi thể, rời khỏi thể thì không còn hiện tướng, chắc chắn phải dựa
vào thể này, tướng mới có thể sanh. Thế nhưng thể này ra làm sao? Thể căn bản
không nhiễm, không có dính mắc, do đó là thanh tịnh, tuy rằng hiện muôn vật, mà
không dính mắc. Vậy chúng ta phải dùng Chân Tâm, thì bắt đầu từ chỗ này, chúng
ta đối mặt với cảnh giới sáu trần, không thể đặt cảnh giới sáu trần vào trong
tâm, vậy thì tương ưng, việc này tương ưng với Tự Tánh. Thường xuyên tương ưng
với Tự Tánh, thì có cơ hội khoát nhiên khai ngộ. Thấy điều gì cũng đặt vào
trong tâm, nghe thấy cũng đặt vào trong tâm, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần:
đều đặt vào trong tâm, thì tâm này đã ô nhiễm rồi, ô nhiễm nghiêm trọng. Không
đặt vào trong tâm thì đúng rồi, đó gọi là chân tu hành. Do đó Phật không bảo
chúng ta hướng ra ngoài cầu, bên ngoài không có vật gì, Tự Tánh vốn tự đầy đủ,
hướng vào trong cầu, không hướng ra ngoài cầu, hướng vào trong cầu là thật sự,
cầu được điều thật, hướng ra ngoài đều là hư vọng. Không thể không biết điều
này.
Câu
thứ tư của Đại sư Huệ Năng, 本無動搖 “bổn vô động dao”
(vốn không dao động), bất động. Chư vị xem địa
cầu này một tháng gần đây, khắp thế giới xảy ra bao nhiêu lần địa chấn? Có những
nơi có chỗ: một ngày địa chấn hai mươi mấy lần, trước nay chưa từng có hiện tượng
này. Tự Tánh vốn không dao động, nói rõ điều gì? Tự Tánh vốn định. Tại sao phải
tu định? Bởi Tự Tánh vốn định, cho nên phải tu định. Định chính là Chân Tâm, định
thì sanh trí huệ, định thì tiêu nghiệp chướng, định thì siêu vượt ba cõi, cực kỳ
vi diệu rồi! Do đó tám muôn bốn ngàn Pháp môn, tu điều gì? Chính là tu định. Pháp
môn Tịnh Tông là vi diệu vô cùng rồi, chỉ dùng một câu Phật hiệu tu định, bảo
chư vị chuyên chú trên câu Phật hiệu này, ngoài Phật hiệu ra thì đều buông xuống
tất cả thứ khác. Giống như lão Hòa thượng Hải Hiền, 92 năm, chỉ một câu Nam Mô
A Di Đà Phật, ngài niệm thành công rồi. Ngài niệm đến cảnh giới nào? Chúng ta
quan sát từ ngay trong phẩm hạnh cả đời của ngài, ngài đại triệt đại ngộ, minh
Tâm kiến Tánh, cảnh giới của ngài bình đẳng với Đại sư Huệ Năng, Đại sư Huệ
Năng từ Thiền mà nhập môn, ngài từ niệm Phật mà nhập môn. Ngài có thể thành tựu,
nói rõ mỗi người chúng ta đều có thể thành tựu, chỉ cần thật thà niệm. Vốn
không dao động, vô cùng quan trọng. Bốn câu này đều là giới thiệu thể tánh của
Tự Tánh.
Câu
sau cùng là sự khởi dụng của Tự Tánh, 能生萬法
“năng sanh vạn pháp”
(có thể sanh ra vạn pháp). Vũ trụ từ đâu mà đến?
Không phải do Thần tạo ra, là do Tự Tánh biến hiện. Tự Tánh làm sao biến hiện?
Biến hiện theo ý niệm. Vì thế nói tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, tưởng thứ gì
hiện thứ đó, tưởng thiên đàng hiện thiên đàng, tưởng địa ngục hiện địa ngục.
Người ngày nay tưởng gì? Tưởng địa ngục, niệm niệm đều tương ưng với địa ngục,
cho nên biến xã hội này thành địa ngục. Không thể không biết, Phật pháp không
phải là giả. Họ tưởng địa ngục, chúng ta tưởng thiên đàng, tốt, cảnh giới chúng
ta liền khác. Tưởng địa ngục, cảnh giới địa ngục hiện tiền; Tưởng thiên đàng, cảnh
giới thiên đàng hiện tiền; Tưởng Thế giới Cực Lạc, Thế giới Cực Lạc hiện tiền.
Do đó, vạn pháp là do Tự Tánh sanh ra, là do Tự Tánh hiện ra, vạn pháp chính là
Tự Tánh, Tự Tánh chính là vạn pháp, bày ở trước mặt chúng ta, chư vị cần phải
nhận biết, sự việc liền dễ dàng rồi.
Nhận
biết đó là Tự Tánh, chúng ta gặp được người thiện, chư Phật Bồ-tát, thì hết mực
cung kính, tốt! Chúng ta học tập với các ngài; Gặp phải người ác thì sao? Người
ác cũng là do Tự Tánh biến hiện ra, chỉ có một là giác ngộ, một là mê muội.
Chúng ta biết tất cả, tâm chúng ta đối với họ là tâm chân thành cung kính, đối
với Phật như vậy, đối với chúng sanh ở địa ngục Vô Gián cũng như vậy. Tại sao vậy?
Bởi họ vốn là Phật, chỉ là bây giờ mê rồi, mê quá nặng rồi, tạo cảnh giới ác
nghiệp hiện nhiều như vậy. Cảnh giới địa ngục: là do nghiệp bất thiện của chính
họ biến hiện ra, Thế giới Cực Lạc: là do nghiệp thiện của A Di Đà Phật biến hiện
ra, không kỳ lạ chút nào. Thiện tương ưng với thiện, ác tương ưng với ác, chúng
ta nhất định phải làm rõ ràng, làm sáng tỏ, dần dần thì giác ngộ rồi.
Phương
pháp giác ngộ rất nhiều, không phải một phương pháp, mà 84 ngàn, vô lượng vô
biên, phương pháp nào, chỉ cần chư vị dùng được ổn thỏa, dùng được thích hợp,
thì đều có thể giác ngộ. Ví dụ của Tông môn rất nhiều, khai ngộ không phải là định
pháp, không có định pháp. Thế nhưng có liên quan với định, định càng sâu, thì
duyên càng thù thắng, chính là cơ hội càng nhiều, không chắc cơ hội gì, để cho
chư vị gặp rồi, chốc lát khoát nhiên đại ngộ. Những việc này, chúng ta có thể đọc
thấy trong truyện ký về Tổ sư Đại đức, có khả năng lãnh hội được, lúc công phu
của các ngài sắp thành tựu gặp được duyên, hoặc là người khác nói một câu, hoặc
là nhìn thấy hoa bay lá rụng, nhìn thấy thời tiết này thay đổi, thì bỗng nhiên
khai ngộ rồi, đây là định công.
Vì
thế trụ Đại thừa giả, trụ là tâm, tâm phải trụ trong Đại thừa, Đại thừa là tâm
lượng lớn, tâm lượng nhỏ không được. Tôi thường xuyên khuyên người, ở xã hội
ngày nay của chúng ta, khởi tâm động niệm đều nên nghĩ khắp cả địa cầu, không
được nghĩ khu vực, khu vực không giải quyết được vấn đề, chỉ có làm cho vấn đề
càng phức tạp thêm. Sai lầm trên địa cầu ngày nay, toàn bộ căn nguyên chính là
điều này, tâm lượng quá nhỏ, tự tư tự lợi. Người nào cũng tự tư tự lợi, thì
phát sinh xung đột, thì phát sinh mâu thuẫn, liền có đấu tranh, liền có chiến
tranh. Chiến tranh, đấu tranh có thể giải quyết vấn đề hay không? Không giải
quyết được vấn đề. Đặc biệt thời đại ngày nay, nếu chiến tranh dẫn đến chiến
tranh vũ khí hạt nhân, thì trọn cả địa cầu bị hủy diệt rồi. Người đầu óc tỉnh
táo sẽ không làm sự việc này, mê hoặc điên đảo thì rất có khả năng.
Vì
thế, người trụ Đại thừa nhất định là cầu Nhất Thiết trí, cầu Phật trí, cầu Tự
Nhiên trí, cầu Vô Sư trí, cầu tri kiến của Như Lai, cầu Thập Lực, bốn loại Vô Sở
Úy của Như Lai, đây đều là Như Lai ngay trong cuộc sống hằng ngày: hiện ra giáo
hóa chúng sanh. Trí huệ đặc thù hiển thị ở đại năng đại đức, giúp chúng sanh
giác ngộ, giúp chúng sanh quay đầu, giúp chúng sanh đắc định, giúp chúng sanh
khai ngộ. Cho nên, mẫn là lân mẫn, mẫn niệm chính là từ bi, phải làm cho tất cả
chúng sanh được an lạc, lợi ích trời người, độ thoát tất cả, đây gọi là Đại thừa.
Chúng ta phải có tâm như vậy, duy trì tâm như vậy, có nguyện vọng như vậy,
nghiêm túc nỗ lực. Tùy duyên tùy phận không miễn cưỡng, có duyên thì làm, không
có duyên cũng không cần phải đi tạo ra nhân duyên, không có việc cần thiết vậy,
hoàn toàn hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Như vậy có thể giữ vững thanh
tịnh bình đẳng giác của chính mình, không bị môi trường bên ngoài quấy nhiễu,
không trở ngại chư vị vãng sanh. Hôm nay chúng ta thật sự cầu vãng sanh, là việc
đại sự bậc nhất, không có sự việc nào lớn hơn nữa. Có làm thêm nhiều sự nghiệp,
cũng không thể chướng ngại vãng sanh, chướng ngại vãng sanh thì sai rồi.
Tiếp
theo, Niệm lão lại trích dẫn Thập Nhị Môn Luận, đây là điển tịch của của Tam Luận
tông, Thập Nhị Môn Luận cũng có nói Đại thừa. 摩訶衍者 “Ma-ha-diễn giả”
(Ma-ha-diễn), Ma-ha-diễn chính là Đại thừa, Phạn ngữ xưng là
Ma-ha-diễn, dịch thành ý nghĩa nước ta chính là Đại thừa. 於二乘為上 “Ư
Nhị thừa vi thượng” (ở trên Nhị thừa),
Nhị thừa là Thanh-văn, Duyên-giác, Ma-ha-diễn ở trên Thanh-văn, Duyên-giác, 故名大乘 “cố
danh Đại thừa” (nên gọi là Đại thừa).
諸佛最大 “Chư
Phật tối đại” (chư Phật lớn nhất),
Phật chính là thừa mà Pháp môn này có thể đến, có thể đến Phật địa, họ có thể
thành Phật, có thể độ chúng sanh, cho nên gọi là Đại. Đối với chúng sanh, 又能滅除眾生大苦 “hựu
năng diệt trừ chúng sanh đại khổ” (có thể diệt
trừ khổ lớn của chúng sanh), đại khổ chính là sáu đường
luân hồi, chính là mười Pháp giới, đặc biệt là sáu đường, ba đường ác trong sáu
đường. Phật nói với chúng ta, đều là lời chân thật, tâm tham đọa ngạ quỷ, sân
khuể thì địa ngục, ngu si là súc sanh, tham sân si. Ai có thể không tạo? Người
thời xưa tạo ít, tại sao vậy? Bởi đọc sách Thánh Hiền từ nhỏ, nên có thể giữ
quy củ. Người lớn có thể làm tấm gương cho trẻ nhỏ, từ nhỏ chúng nhìn bằng mắt,
học trong tâm, chúng có thể giữ được tốt, không tham, không sân, không si,
không ngạo mạn, không nghi ngờ. Thế giới này ngày nay, chúng ta quan sát tỉ mỉ,
đi đâu tìm một người, không có cả năm loại phiền não: tham sân si mạn nghi chứ?
Hầu như là tìm không có. Không những trong pháp thế gian tìm không có, mà trong
nhà Phật cũng tìm không có.
Người
đều tạo nghiệp này, nghiệp có quả báo, quả báo thì sẽ hiện tiền. Lúc hiện tiền,
đây gọi là hoa báo, đọa lạc vào ba ác đạo là quả báo, hoa báo là gì? Tai nạn.
Tâm tham chiêu cảm: thủy tai, thủy tai nghiêm trọng nhất, là sóng thần, hiện
nay thường có trên địa cầu này. Sân hận, cảm hỏa tai. Mấy ngày trước báo cáo lửa
lớn ở Canada, trăm mấy chục ngàn người gặp phải nạn lửa này, rất nghiêm trọng.
Bao gồm thời tiết nóng dần, đây đều thuộc về lửa, núi lửa bùng phát, nhiệt độ
tăng lên, đều có liên quan đến việc [sân hận] này. Ngu si, chiêu cảm phong tai,
gió lốc, bão táp. Ngạo mạn chiêu cảm: động đất. Nghi ngờ cảm ứng núi lở, chúng
ta gọi là sạt lở, đất đá sụt, mặt đất đột nhiên sụt xuống, trong Kinh Phật đều
nói những việc này. Nếu người cư trú bên chúng ta đây: tham sân si mạn nghi nhẹ,
thì sẽ không có những tai nạn này, nếu nghiêm trọng, thì những việc này sẽ xuất
hiện. Đạo lý là gì? Phật giảng rất rõ ràng, tất cả pháp từ tâm tưởng sanh.
Chúng ta nghĩ tham sân si mạn nghi, chính là tưởng tai nạn; Nghĩ tham sân si,
chính là tưởng ba ác đạo. Chúng tôi thường xuyên nhắc nhở mọi người, hy vọng chỉnh
ý niệm đoan chánh lại, điều không nên nghĩ thì đừng nghĩ.
Đặc
biệt là người ngày nay, nghi ngờ cổ Thánh tiên Hiền, cho rằng thời xưa không có
Khoa học, thời xưa không có văn minh vật chất như ngày nay, người ngày nay vượt
qua người xưa, người xưa đều không bằng người hiện tại. Nhưng chư vị tỉ mỉ mà đọc
lịch sử xem, chư vị đọc thử tác phẩm nghệ thuật: mà những văn nhân quá khứ lưu
lại, thậm chí trong tiểu thuyết, hý kịch, trong đó đều có gợi ý rất lớn. Chứng
minh điều gì? Chứng minh người thời xưa rất hạnh phúc, cuộc sống vật chất thiếu
hụt một chút không sao, người có lòng yêu thương rất đông, người chịu giúp đỡ rất
đông. Cũng chính là nói, người ưu thích tu thiện đoạn ác, tích công lũy đức
đông, cũng đều hiểu được. Hiện tại tuy rằng Khoa học kỹ thuật không ngừng phát
triển, mà người như thế nào? Quý mà không an, phú mà không vui. Chư vị mong muốn
có loại phú quý này không? Tôi tin rằng chư vị không mong muốn có, đó là chịu tội,
tinh thần, thể chất đang bị hành hạ ngày ngày.
Chư
vị xem hiện tại, ăn uống đều không có cảm giác an toàn, quá nhiều đồ giả, người
ngày nay không có đạo đức, ngay cả thuốc cũng có giả. Thuốc giả đó là gì? Mưu
tài hại mạng, chư vị đã lấy tiền người ta, còn lấy mạng người ta, người ngày
nay làm sự việc này, sau khi chết đọa địa ngục. Họ không tin có địa ngục, họ
không tin có đời sau, nên việc gì cũng dám làm. Sau khi chết rồi thì họ liền biết,
thế thì không kịp rồi. Chúng tôi có gặp qua, cảm ứng thật nhanh! Chết rồi là
ngày thứ tư, ngày thứ ba, ngày thứ tư thì báo mộng, thì nhập hồn đến cầu sám hối.
Lúc còn sống tạo tội nghiệp mà không biết, sau khi chết rồi thì đã biết, tội
nghiệp này đưa họ đến địa ngục Vô Gián, phiền phức thật lớn lắm, không dễ gì trở
ra.
Trong
Phật pháp nói với chúng ta, giết thân mạng của người tội nhỏ, phá Pháp thân huệ
mạng của người tội lớn, phá Pháp thân huệ mạng của người ta: chính là chướng ngại
người học Phật. Học Phật, họ thật có duyên đầy đủ, thật sự gặp được Tịnh tông,
thì họ vĩnh viễn thoát ly luân hồi trong đời này rồi, chư vị nói công đức này lớn
biết bao. Bằng với chư vị giúp đỡ một người đi đến Thế giới Cực Lạc làm Phật rồi,
công đức lớn! Không có công đức nào lớn hơn công đức này. Chư vị muốn dùng hết
cách chướng ngại họ, phá hoại họ, để họ không còn lòng tin đối Phật pháp, khiến
họ bỏ việc học Phật, bỏ việc cầu vãng sanh, phiền phức này quá lớn rồi, chúng
ta không thể không biết.
Tiếp
theo đây nói, 諸佛大人 “Chư Phật Đại nhân”
(Chư Phật Đại nhân), Đại nhân này cũng có thể xưng
là Phật, cũng có thể xưng là Pháp thân Bồ-tát. Các ngài tu học Pháp môn này,
Pháp môn này gọi là Đại thừa. Niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Thế giới Cực Lạc là Đại
thừa, đây không phải Tiểu thừa, vả lại việc này là vô cùng nhanh chóng, một đời
thì thành tựu, không cần trải qua nhiều đời nhiều kiếp, mà một đời thành tựu,
thật sự có thể diệt trừ khổ lớn của chúng sanh. Vô lượng kiếp làm sáu đường
luân hồi, nếu không phải Pháp môn này, thì ngay trong đời này: không có cách
nào siêu vượt sáu đường luân hồi; Cầu sanh lên trời không thành vấn đề, cầu
thoát luân hồi khó, quá khó!
Tiếp
theo đây còn có một câu nói, 又以此乘能盡一切諸法邊底,故名為大
“Hựu dĩ thử thừa năng tận nhất thiết chư
Pháp biên để, cố danh vi đại” (lại do thừa này có thể
tận nguồn giới hạn của tất cả các Pháp, nên gọi là Đại).
Câu này nói rất trọng yếu. Tâm Đại thừa, duyên Đại thừa, hạnh Đại thừa, nếu chư
vị đều gặp được, Pháp môn Tịnh Tông: thì không những là có thể tận nguồn giới hạn
các pháp Đại thừa, hơn nữa còn là viên mãn, rốt ráo viên mãn. Chư vị nghiêm túc
đọc trước tác sau cùng: của lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ để lại, là Báo Ân Đàm, Tịnh
Tu Tiệp Yếu Báo Ân Đàm, rất nhiều đồng học đã tốn thời gian rất dài, chỉnh lý
tác phẩm này thành một quyển sách; Còn có một băng ghi âm, đã đọc tác phẩm một
lần từ đầu đến cuối, là sách nói. Phân lượng quyển sách này không lớn, giới thiệu
Phật pháp cho mọi người: một cách viên mãn, hiếm có khó gặp. Có thể nói quyển
sách nhỏ này, là lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đã giảng cho chúng ta: nhận biết Phật
pháp, nhận biết Phật giáo, Phật giáo là gì? Phật pháp là gì? Chư vị tỉ mỉ đọc
sách đó thì đủ rồi. Trong đó Đại thừa Tiểu thừa, Hiển giáo Mật giáo, Tông môn
Giáo hạ, bao gồm cả rồi, đều ở bên trong.
Hơn
nữa tu hành rất đơn giản, mỗi ngày dùng hơn nửa tiếng thì đủ rồi, 32 lễ, thời
khóa sớm tối đều dùng sách ấy, cả đời không thiếu, thì chư vị nhất định được
sanh Tịnh Độ. Thầy của ngài là lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, lưu lại cho chúng ta, đó
là bản Hội tập Kinh Vô Lượng Thọ, vô lượng công đức, thiên Báo Ân Đàm này của
ngài: công đức không thua kém bản Hội tập của Kinh Vô Lượng Thọ, đây là tâm đắc
báo cáo về tu học cả đời của ngài, nói được rất chi tiết. Thời kỳ Mạt pháp tu Tịnh
Độ, có hai quyển này thì đủ rồi. Kinh Vô Lượng Thọ nói rõ ràng, nói sáng tỏ đạo
lý, chân tướng sự thật, Báo Ân Đàm giới thiệu hết toàn bộ: về tám muôn bốn ngàn
Pháp môn trong nhà Phật, Đại thừa Tiểu thừa, các tông phái, Hiển giáo Mật giáo,
chư vị đều biết rồi. Sau cùng buông xuống vạn duyên, quyết trọn một lòng, tín
nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ, chư vị thành tựu viên mãn trong đời này, đây
gọi là Đại.
又《寶積經廿八》 “Hựu
Bảo Tích Kinh Nhập Bát” (Lại trong quyển 28 của
Kinh Bảo Tích), trong đây có một câu Kinh
văn, 諸佛如來正真正覺所行之道,彼乘名為大乘 “Chư Phật Như Lai Chánh Chân Chánh Giác sở hành chi
đạo, bỉ thừa danh vi Đại thừa” (Đạo Chánh
Chân Chánh Giác mà chư Phật Như Lai hành, thừa ấy gọi là Đại thừa).
Đây cũng là giải thích về cách gọi Đại thừa, là Chánh Chân Chánh Giác của chư
Phật Như Lai, trong Chánh Giác còn thêm một chữ chánh, còn thêm một chữ chân.
Vào thời nay ai chứng đắc? Có, không phải không có. Chúng tôi nhìn thấy, lão Cư
sĩ Hạ Liên Cư chứng đắc, nhìn thấy trong bộ Kinh này; Lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
chứng đắc, nhìn thấy trong Chú giải của ngài, nhìn thấy trong Tịnh Tu Tiệp Yếu
Báo Ân Đàm; Còn có một người, lão Hòa thượng Hải Hiền chứng đắc, chúng tôi nhìn
thấy từ phẩm hạnh: trong một đời của lão Hòa thượng, ngài thật sự là đại triệt
đại ngộ, nhưng không có thuyết pháp. Tại sao không nói? Do Sư phụ dạy ngài. Chư
vị thấy ngài xuất gia xuống tóc năm 20 tuổi, xuống tóc xong Sư phụ dạy ngài,
truyền pháp cho ngài, đã dạy ngài sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật này, căn dặn ngài
cứ niệm liên tục mãi, thì ngài niệm 92 năm liền. Còn có một câu nói rất quan trọng,
hiểu rồi không được nói, không được nói lung tung, không được nói. Hiểu rồi là
gì? Đại triệt đại ngộ, minh Tâm kiến Tánh. Chư vị xem, Sư phụ tuyệt vời, Sư phụ
đã hiểu được người đồ đệ này không phải người phàm, biết chữ hay không biết chữ
không quan trọng, phải làm sao? Thật thà, nghe lời, thật làm. Đây là do cổ
Thánh tiên Hiền để lại cho hậu thế chúng ta, là lời chân thật, không phải lời
giả. Bất kỳ một người nào: chỉ cần chư vị có thể làm được sáu chữ này, thì chư
vị có thành tựu; Hễ là không thể thành tựu, đều là không thật thà, đều là không
nghe lời, không chịu thật làm. Lão Hòa thượng Hải Hiền thật làm, vả lại sự tiến
bộ của ngài: gần như chúng ta đều có thể nhận ra được. Công phu thành phiến,
đây là giai đoạn thứ nhất, không quá 25 tuổi, thông thường ba năm, lúc 22, 23
tuổi thì có thể đạt được; Sự Nhất tâm Bất loạn, tôi tin rằng không vượt qua 30
tuổi; Lý Nhất tâm Bất loạn, phải là khoảng 40, thì đại triệt đại ngộ, minh Tâm
kiến Tánh, đã bằng với Đại sư Huệ Năng rồi.
Muhammad
cũng là như vậy, cũng là đại triệt đại ngộ. Thời đại ra đời khác nhau, nơi ra đời
khác nhau, trình độ văn hóa người địa phương đó khác nhau, vì thế phương pháp
hóa độ chúng sanh cũng khác nhau, nhưng nguyên lý nguyên tắc là một, Phật Phật
đạo đồng. Triển khai ra, tất cả hết thảy Tôn giáo, con đường đều là giống nhau,
không có trái ngược nhau. Nếu người Cơ Đốc Giáo là thật làm, nghiêm túc học tập,
tương lai sanh Thiên đàng; Người niệm A Di Đà Phật, tín nguyện trì danh, tương
lai sanh Thế giới Cực Lạc. Đến Thế giới Cực Lạc, chư vị nhìn thấy người sanh
lên Thiên đàng ở nơi ấy, chư vị sẽ hỏi: Bạn làm sao đến rồi? Người Thế giới Cực
Lạc: Bạn làm sao đến Thế giới Cực Lạc rồi? Người bên đó: Bạn làm sao đến Thiên
đàng rồi? Thì ra là một nơi, mà không cùng danh xưng. Đây là thật sự, không phải
giả.
Kinh
phải giảng rõ ràng, phải giảng sáng tỏ, Tôn giáo không có mâu thuẫn với Tôn
giáo, không có chống đối, vốn là một nhà. Đừng lôi kéo tín đồ nữa, họ tin đạo
đó, tốt! Họ đi đến nơi đó, chúng ta cũng đi đến bên đó, chúng ta giống nhau.
Chúng ta không phải ngồi cùng một chiếc xe, nhưng đạt đến là cùng một điểm đến,
vậy có điều gì để tranh? Tranh, thì sai rồi. Vì vậy Tôn giáo nên phải đoàn kết,
phải quay về giáo dục, phải học tập lẫn nhau. Tôn giáo thật sự đoàn kết, không
lôi kéo tín đồ nữa, hoàn toàn đều hiểu rồi, mỗi một giáo đều tốt, Kinh điển tốt,
phương pháp tu hành tốt, thầy cũng tốt, tín đồ cũng tốt, không có một thứ gì
không tốt, phải tôn trọng. Không có Phân biệt, không có Chấp trước, phải dùng
thanh tịnh bình đẳng giác để đối đãi, tương lai là cùng một điểm đến.
Câu
nói住大乘者 “Trụ
Đại thừa giả” này, 即常住於如上大乘法中之人
“tức thường trụ ư như thượng Đại thừa
pháp trung chi nhân” (tức là người thường trụ
ở trong pháp Đại thừa như trên). Thường có tâm này, thường
hành đạo này, làm ra tấm gương tốt cho các đồng học thế gian. Lão Hòa thượng Hải
Hiền vì người thời đại chúng ta, làm ra tấm gương tốt cho người học Phật, ngài
thật thà niệm Phật, lại làm ra tấm gương tốt cho người niệm Phật. Ở thời đại
này, tâm lượng phải lớn, phải có thể bao dung, phải có thể chịu khổ. Có phải thật
chịu khổ hay không? Người bên ngoài nhìn thấy là thật chịu khổ, người trong cuộc
nhìn thấy họ được đại tự tại, pháp hỷ sung mãn. Lão Hòa thượng đắc đại tự tại,
chư vị xem, bao nhiêu người quen biết ngài đều khen ngợi, bất luận là vào lúc
nào, ở chỗ nào, lão Hòa thượng đều là vô cùng hoan hỷ, đều là vô cùng vui vẻ,
đây chính là có thọ dụng, pháp hỷ sung mãn, thường sanh tâm hoan hỷ. “Bất diệc
duyệt hồ” của Khổng lão phu tử, ngài đạt được rồi, biểu hiện ngay trong cuộc sống
hàng ngày, biểu hiện trong xử việc đãi người tiếp vật. Bốn câu sau cùng: là một
đoạn tổng kết của lão Hoàng Niệm lão. 當知是人,決非凡小
“Đương tri thị nhân, quyết phi Phàm Tiểu”
(Nên biết người ấy, nhất định chẳng phải Phàm phu hay Tiểu thừa),
ngài không phải phàm phu, ngài không phải Tiểu thừa, 雖是肉身,亦名菩薩 “tuy thị nhục thân, diệc
danh Bồ-tát” (Tuy là nhục thân, nhưng cũng
gọi là Bồ-tát), nếu chư vị nhìn thấy người
này, người này chính là Bồ-tát. Đây là giải thích một câu 住大乘者 “trụ
Đại thừa giả” (người trụ Đại thừa),
chúng ta phải học, chúng ta phải học tâm thanh tịnh.
Tiếp
theo nói 清淨心,無疑無垢,淨信之心也 “thanh tịnh tâm, vô nghi vô cấu, tịnh tín chi tâm
dã” (tâm thanh tịnh, không nghi không ô nhiễm, là
tâm tịnh tín). Phía trước đã nói, vậy thì không nói thêm nữa.
Nghi ngờ, tâm không thanh tịnh, có nghi, nghi là phiền não nghiêm trọng, tham
sân si mạn nghi, năm phiền não lớn. Nghi thì sao đây? Chăm chỉ học Kinh giáo,
Kinh giáo chính là giúp chư vị đoạn nghi sanh tín. Vùng lân cận không có Đạo
tràng, không có Thiện hữu, không quan trọng, đọc Kinh, một ngày niệm 20 biến
Kinh Vô Lượng Thọ, niệm được nửa năm, một năm, thì đoạn được nghi rồi. Cấu là ô
nhiễm, nghi là chướng ngại từ trong sanh ra, cấu là từ bên ngoài, bị môi trường
ô nhiễm, mắt bị sắc ô nhiễm, tai bị âm thanh ô nhiễm, mũi bị hương ô nhiễm, lưỡi
bị vị ô nhiễm. Nói cách khác chính là, sáu căn tu hành ở cảnh giới sáu trần, tu
hạnh gì? Không bị ô nhiễm. Chính là nói nhìn được rõ ràng, nghe được rõ ràng,
ngửi được rõ ràng, nếm được rõ ràng, mọi thứ đều rõ ràng, đây là trí huệ
Bát-nhã, chánh tri khởi hiện hành, nhất định không để trong tâm. Tâm như thế
nào? Không có khởi tâm, không có động niệm, tốt, thì chư vị giải thoát rồi, thì
chư vị thành Phật rồi. Còn có Khởi tâm động niệm, không còn Phân biệt Chấp trước,
cũng khá, chư vị là Bồ-tát, lại nỗ lực, tinh tấn tiếp, lên thêm một tầng nữa. Sợ
nhất là đặt tất cả từng li từng tí ở trong tâm, thế thì người này khổ rồi, tâm
bị ô nhiễm rồi. Ô nhiễm thứ gì? Tâm họ không tự tại, tâm họ không an, họ lo âu
nhiều quá, bận lòng nhiều quá, mọi thứ đều không buông xuống được, không đạt được
tịnh tín, vãng sanh có chướng ngại. Vãng sanh cần phải tịnh tín, làm thế nào mới
có thể không nghi? Một câu trên Kinh Kim Cang đã giải quyết cho chư vị rồi, 凡所有相,皆是虛妄 “phàm
sở hữu tướng, giai thị hư vọng” (những gì có
tướng, đều là hư vọng), chư vị còn có gì để
nghi chứ? Thuận cảnh, thiện duyên là hư vọng, nghịch cảnh, ác duyên cũng là hư vọng.
Cho nên thật sự có thể nhận biết rõ ràng, đã buông xuống rồi, thì hết chuyện,
thiên hạ vốn không có việc, là thật, do người tự chuốc lấy thôi.
Quyển
thứ 41 của Trung A Hàm cũng có, 清淨心,盡脫婬怒痴
“Thanh tịnh tâm, tận thoát dâm nộ si”
(tâm thanh tịnh, thoát hết dâm nộ si), chính là
tham sân si. Trong tham sân si, phiền phức nhất là dâm, đây là nghiệp nhân của
ba đường ác. 成就於三明 “Thành tựu ư Tam minh”
(thành tựu nơi Tam minh), đoạn ba điều ác này rồi,
thật sự từ trong tâm thanh tịnh chuyển ra mất rồi, trong tâm không còn dâm nộ
si, đây chính là giới định huệ, thì đã thành tựu giới định huệ, giới viên mãn rồi,
định viên mãn rồi, huệ cũng viên mãn rồi. 如是清淨心,功德難思 “Như thị thanh tịnh tâm,
công đức nan tư” (Tâm thanh tịnh như vậy, thì
công đức khó nghĩ lường), lời này là thật, công đức
của tâm thanh tịnh không thể nghĩ bàn. Tại sao vậy? Bởi tâm địa thanh tịnh, thì
sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần không mê hoặc, sanh trí huệ, sanh tâm thanh
tịnh, sanh tâm trí huệ, sanh tâm công đức. Công đức là gì? Lợi ích chính mình,
lợi ích chúng sanh, đó là công đức. Trái ngược với dâm nộ si chính là giới định
huệ.
故《十方佛讚品》曰 “Cố
Thập Phương Phật Tán Phẩm viết” (Cho nên Phẩm
Mười Phương Chư Phật Tán Thán nói rằng),
đây là Kinh này, phẩm phía trước, 乃至能發一念淨信。隨願皆生也 “Nãi chí năng phát nhất niệm tịnh tín. Tùy nguyện
giai sanh dã” (Ngay cả phát được một niệm niềm tin thanh tịnh, thì tùy theo nguyện đều
vãng sanh). Chư vị cầu vãng sanh Thế giới Cực Lạc, phải nắm chắc điểm này. Ngũ nghịch
Thập ác, lúc sắp mạng chung: có thể nắm chắc một câu này thì cũng được vãng
sanh. 以如上之清淨心,歸向無量壽佛,故云:以清淨心,向無量壽。
“Dĩ như thượng chi thanh tịnh tâm, quy hướng Vô Lượng Thọ Phật, cố vân:
Dĩ thanh tịnh tâm, hướng Vô Lượng Thọ.” (Dùng tâm thanh tịnh như trên, quy
hướng Vô Lượng Thọ Phật, nên nói rằng: dùng tâm thanh tịnh, hướng về đức Vô Lượng
Thọ). Câu nói này quan trọng, thật tin Phật, thật niệm Phật, trong tâm thanh tịnh,
chỉ có Vô Lượng Thọ Phật, là A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra, thì không được
đặt thứ gì vào, đặt vào thì ô nhiễm rồi, thứ gì cũng không được đặt, thời thời
khắc khắc phải ghi nhớ câu này. Thế thì chúng ta niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ:
không một ai không thành tựu, tương lai ai cũng đều có thể được vãng sanh.
Cho nên đề Kinh đã nói rõ
ràng, nói sáng tỏ tu hành là tu điều gì, thanh tịnh, bình đẳng, giác, là tu những
điều này. Dùng ngay trong sinh hoạt hàng ngày, dùng trong xử việc đối người tiếp
vật, bất luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, là thiện duyên hay ác duyên, đều là
thanh tịnh bình đẳng giác. Đắm nhiễm thì không thanh tịnh, Phân biệt Chấp trước
thì không bình đẳng, thế thì mê rồi, vậy thì là phàm phu. Công phu là ở chỗ
này, vô cùng rõ ràng, thấy sắc nghe tiếng, sáu căn trong cảnh giới sáu trần, không
Khởi tâm không động niệm, không Phân biệt không Chấp trước, chính là hai câu
này. Không Khởi tâm không động niệm là Phật, công đức viên mãn, không Phân biệt
không Chấp trước là Bồ-tát và A-la-hán, A-la-hán không Chấp trước, Bồ-tát không
Phân biệt, Phật không Khởi tâm không động niệm. Công phu toàn bộ ở ngay trong
sinh hoạt hàng ngày, sáu căn luyện trong cảnh giới sáu trần, đây gọi là thực sự
tu.
Đoạn phía sau đây, 『乃至十念』“nãi chí thập niệm” (ngay cả mười niệm), giảng đến chỗ rốt
ráo. 乃至者,從多向少而言,如云下至。如上之信願持名歸向淨土,下至僅得十念相續,亦定生彼國。“Nãi chí giả, tùng đa hướng thiểu nhi ngôn, như vân
hạ chí. Như thượng chi tín nguyện trì danh quy hướng Tịnh
Độ, hạ chí cẩn đắc thập niệm tương tục, diệc định sanh bỉ quốc.” (Nãi chí: là từ nhiều
đến ít mà nói, như nói dưới đến. Như tín nguyện trì danh quy hướng Tịnh Độ ở
trên, dưới đến chỉ được mười niệm liên tục, cũng chắc chắn vãng sanh nước ấy). Tịnh Tông đây quá
thù thắng, việc này thật tuyệt vời! Chúng ta phải tin tưởng, không thể nghi ngờ,
nghi ngờ thì sai rồi, thì chúng ta lỡ mất cơ hội, nhất định không nghi ngờ, chúng
ta đều tin được từng câu nói.
Cuộc sống, công việc của một
người lại bận rộn, không dành được thời gian niệm Phật, hoàn cảnh chướng ngại họ,
không để họ niệm Phật, thì chúng ta dùng phương pháp này, mười niệm. Mười niệm
có rất nhiều cách, ở đây cũng có giới thiệu, phía sau có giới thiệu. 十念包括平時與臨時 “Thập niệm bao quát bình thời dữ lâm thời” (Mười niệm này bao gồm
lúc bình thường và khi lâm chung), lâm thời là lúc sắp mạng chung, bình thời
chính là mỗi ngày ngay trong cuộc sống hằng ngày. Tổ sư Đại đức rất từ bi, đối
với những nghiệp chướng nặng đó, công việc, sinh hoạt đều không được tự tại, đều
bị người khác điều khiển, vậy rất khó, cho nên dạy cho chư vị pháp mười niệm.
Pháp mười niệm, đoạn thứ hai trong đây, Đại sư Từ Vân dạy chúng ta lấy mười
hơi, một hơi gọi là một niệm, bất luận bao nhiêu câu Phật hiệu, A Di Đà Phật, A
Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, hết một hơi gọi là một niệm, niệm mười
hơi. Sáng sớm thức dậy, sau khi đã rửa mặt, súc miệng, có tượng Phật thì đối
trước tượng Phật niệm, không có tượng Phật, thì mặt hướng phương Tây, niệm mười
câu Phật hiệu; Buổi tối trước khi đi ngủ cũng niệm mười câu, tập thành thói
quen. Không có gián đoạn, cả đời không gián đoạn, lúc sắp mạng chung nhất định
được sanh.
Có rất nhiều cách mười niệm,
cũng có người là một tiếng, một câu là một niệm, mười câu, cũng được. Ngày trước
tôi ở Singapore, tiếp xúc rất nhiều với Hồi giáo, đã quen không ít bạn bè Hồi
giáo, họ lễ bái năm lần một ngày, bất luận vào lúc nào, hễ vừa đến giờ, thì việc
gì họ cũng buông xuống, lập tức mặt nhắm hướng Mecca mà lễ bái. Rất đơn giản, mấy
phút thì làm xong rồi, một ngày năm lần, không thiếu lần nào. Cho nên, Hồi giáo:
có thể đoàn kết thành một lực lượng lớn như vậy, phương pháp này là nguyên nhân
chủ yếu. Chỉ cần là Tín đồ Hồi giáo, thì không được thiếu năm lần lễ bái một
ngày, bất luận đang làm việc gì, thời gian vừa đến thì buông xuống, liền lễ
bái. Phương pháp này hay, niệm niệm không rời xa Chân Chủ. Do đó trong tất cả Tôn
giáo, đoàn kết nhất chính là Hồi giáo.
Lúc đó tôi liền nghĩ dùng
phương pháp này niệm Phật, tôi phổ biến một phương pháp niệm Phật, một ngày
chín lần, còn nhiều hơn cách đó bốn lần. Chín lần của chúng ta là cách niệm như
thế nào? Chính là niệm mười câu A Di Đà Phật, đơn giản hơn cách đó. Niệm mười
tiếng A Di Đà Phật, sáng sớm thức dậy một lần, buổi tối đi ngủ một lần, hai lần,
sáng tối; Ba bữa ăn, ba lần, vậy thì năm lần; Làm việc, buổi sáng đi làm, trước
khi làm việc, niệm mười tiếng Phật hiệu rồi mới bắt đầu làm việc, sau khi làm
xong việc, tan làm rồi, cũng niệm mười câu Phật hiệu mới rời khỏi, đi làm tan sở,
buổi sáng hai lần, buổi chiều cũng hai lần, tổng cộng chín lần. Có rất nhiều đồng
học làm theo phương pháp này, gọi điện thoại nói với tôi, gặp được tôi nói: rất
hiệu quả, thật có thể nhiếp tâm. Họ có thể một ngày chín lần không gián đoạn. Niệm
như vậy mỗi ngày, tốt! Điều quan trọng nhất, chính là để trong tâm chúng ta niệm
niệm có Phật, không được xa Phật quá lâu, chư vị niệm Phật thời gian như vậy, thời
gian trong tâm có Phật dài, dùng phương pháp này có hiệu quả. Ở Singapore, ở
Malaysia: rất đông người dùng phương pháp này; ở Mỹ, Canada: cũng không ít người
dùng phương pháp này.
Mười niệm này, bao gồm lúc
bình thường và lúc lâm chung. Tiếp theo nói, 至於平時十念,亦有兩種
“Chí ư bình thời thập niệm, diệc hữu lưỡng chủng” (cho đến mười niệm
lúc bình thời, cũng có hai loại), cách thứ nhất, 如前引《彌勒發問經》中佛說之十念,不雜結使,是乃菩薩念,而非凡夫念
“như tiền dẫn Di Lặc Phát Vấn Kinh trung Phật thuyết chi thập niệm, bất
tạp Kiết sử, thị nãi Bồ-tát niệm, nhi phi phàm phu niệm” (như trước dẫn mười
niệm Phật nói trong Kinh Di Lặc Phát Vấn, không xen tạp Kiết sử, ấy là Bồ-tát
niệm, mà chẳng phải phàm phu niệm). Câu nói này là thật, không phải giả. Kiết sử
này là phiền não, chính là Vọng tưởng, tạp niệm. Người bình thường rất khó làm
được, Bồ-tát mới có thể làm được, phàm phu không làm được. Kinh này nói 以清淨心,向無量壽,乃至十念,即以脫盡婬怒痴之三毒,具成就三明之智德,以如是之心,而持佛名號。如是念佛,功德難思。以此為因,則臨終正念現前,定得往生。但此乃菩薩之十念
“Dĩ thanh tịnh tâm, hướng Vô Lượng Thọ, nãi
chí thập niệm, tức dĩ thoát tận dâm nộ si chi tam độc, cụ thành tựu tam minh
chi trí đức, dĩ như thị chi tâm, nhi trì Phật danh hiệu. Như thị
niệm Phật, công đức nan tư. Dĩ thử vi nhân, tắc lâm chung chánh niệm hiện tiền,
định đắc vãng sanh. Đãn thử nãi Bồ-tát chi thập niệm.” (Dùng tâm thanh tịnh,
hướng về đức Vô Lượng Thọ, ngay cả mười niệm, tức là bởi do thoát hết Tam độc:
dâm nộ si, thành tựu đủ trí đức Tam minh, dùng tâm như vậy, mà trì danh hiệu Phật.
Niệm Phật như thế, thì công đức khó nghĩ bàn. Lấy đó làm nhân, thì lâm chung
chánh niệm hiện tiền, nhất định vãng sanh. Nhưng ấy là mười niệm của Bồ-tát). Phàm phu chúng ta
không làm được, chúng ta không thể không biết điều này.
Hôm nay thời gian hết rồi,
chúng ta học đến đây thôi, buổi học lần sau chúng ta vẫn tiếp theo đoạn này. Chúng
ta nỗ lực thế nào: đem Pháp môn niệm Phật này, thực tế nói, thích hợp nhất với
chúng ta: vẫn là Tịnh Tu Tiệp Yếu, tin rằng đại đa số đồng học, sáng sớm dậy sớm
nửa tiếng đồng hồ, buổi tối ngủ sớm một chút, y theo phương pháp Tịnh Tu Tiệp Yếu
để tu. Ở trong đó có lễ bái, một lần thì một lễ, trong một lễ ba tiếng Phật hiệu,
Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, ba tiếng Phật hiệu
trong một lễ. Trong đó có quán tưởng, Kinh văn được trích dẫn: để trong tâm chư
vị lúc đang niệm Kinh văn, thì trong tâm tác quán, hiệu quả rất thù thắng. Những
lời giảng giải này của Hoàng Niệm lão giảng được rất thấu triệt, nếu như thường
xuyên nghe, có thể ghi nhớ, sẽ giúp ích rất lớn. Chúng ta tin tưởng đây thật sự
là báu vật, không dễ dàng! Phương pháp khéo léo như vậy, chiếm thời gian không
dài, mà thu hiệu quả vô cùng thù thắng, chúng ta cần phải học tập. Tốt rồi, hôm
nay học tập đến đây thôi.
(Hết tập 329)
Nguyện đem
công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều sanh nước Cực Lạc
Sớm viên thành Phật quả
Rộng độ khắp chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật.